THÔNG TIN GIỚI THIỆU DI SẢN VĂN HÓA
Tên di sản Múa rối nước
Loại hình di sản Nghệ thuật trình diễn dân gian
Địa điểm Xã Thanh Hải - Huyện Thanh Hà - Tỉnh Hải Dương, Xã Lê Lợi - Huyện Gia Lộc - Tỉnh Hải Dương, Xã Hồng Phong - Huyện Ninh Giang - Tỉnh Hải Dương
Miêu tả về di sản văn hóa phi vật thể

- Thời điểm trước Cách mạng tháng Tám ở Hải Dương có 3 phường rối nước: Bồ Dương (nay thuộc Hồng Phong - Ninh Giang), An Liệt (nay thuộc Thanh Hải - Thanh Hà), Bùi Thượng (nay thuộc Lê Lợi - Gia Lộc). - Phường rối nước Bồ Dương (Hồng Phong - Ninh Giang): Căn cứ các tài liệu và hoạ tiết chạm khắc còn lưu giữ tại đình thôn Bồ Dương - Hồng Phong (Ninh Giang) cho thấy: Nghề múa rối nước được truyền từ Bắc Ninh về thôn Bồ Dương từ thế kỷ 14, sau này ở phường có cụ Lý Tiêu đã sang dạy học trò ở Nguyên Xá (Thái Bình) múa rối và trở thành những phường rối nước nổi tiếng của cả nước. - Phường rối nước Bùi Thượng (Lê Lợi - Gia Lộc): Ở đình làng Bùi Thượng, xã Lê Lợi (Gia Lộc) thờ vị tướng thời Lý Trương Công Tế - giữ chức Đại nguyên soái, kiêm đô đốc thuỷ quân có công đánh giặc Tống. Khi về già, ông đem nghề múa rối về làng Bùi Thượng và truyền dạy cho dân làng, khi mất được tôn làm thành hoàng. Ngoài ra, tại đình còn thờ một vị tướng khác là Trần Bình - thời Lý, người dùng các con rối để lập mưu lừa và tiêu diệt giặc Tống. Sau làng Bùi Thượng có hai đội rối nước, một đội của họ Phạm Thế, một đội của họ Đinh, mỗi đội có 30 người. Phường rối nước Bùi Thượng có vị thế quan trọng trong các dịp cúng tế thành hoàng. - Phường rối nước An Liệt (Thanh Hải - Thanh Hà): Theo truyền khẩu tại địa phương thì phường rối nước Thanh Hải có từ thời hậu Lê do một người làng An Liệt đi làm ăn xa, được xem múa rối nước, thấy hay nên đã học, về làng lập ra phường và hành nghề. Trước Cách mạng tháng Tám, các phường rối nước đều là các phường tư nhân, do một trùm phường thành lập điều hành, tổ chức tập luyện biểu diễn. Các tích trò diễn của các phường thường phản ánh cuộc sống của người lao động, tái hiện lại những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm... Nổi bật trong các buổi diễn của múa rối nước đều có chú Tễu. Các phường thường đi diễn tại lễ hội... hoặc các quan huyện, phủ, trấn yêu cầu. Sau này, rối nước trải qua những thời điểm khó khăn, không có điều kiện hoạt động. Đến năm 1986, phường rối nước Bồ Dương được khôi phục. Ngày 22/2/1992 UBND huyện Ninh Giang ra quyết định thành lập phường Rối nước Hồng Phong trên cơ sở nâng cấp từ phường rối nước Bồ Dương. Tháng 3/1999, phường rối nước Thanh Hải (Thanh Hà) được phục hồi, nâng cấp trên cơ sở phường rối nước An Liệt. Tiếp theo, năm 2000 phường rối nước Lê Lợi được phục hồi, nâng cấp trên cơ sở phường rối nước Bùi Thượng.

Nghệ thuật trò rối nước dùng mặt nước làm sân khấu gọi là nhà rối hay thủy đình. Thủy đình di động có diện tích 30m2 xưa làm bằng tre, nứa phía sau có phông che, xung quanh trang trí cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã... tên phường rối. Mức nước đảm bảo là 0.8m, được hòa phẩm màu xanh lục. Con rối làm bằng gỗ sung, loại gỗ nhẹ nổi trên mặt nước, được đục cốt, đẽo với những đường nét cách điệu riêng, sau đó gọt giũa, đánh bóng và trang trí với nhiều màu sơn khác nhau để làm tôn thêm đường nét tính cách cho từng nhân vật. Hình thù của con rối thường tươi tắn, ngộ nghĩnh, tính hài và tính tượng trưng cao. Phần thân rối là phần nổi lên mặt nước thể hiện nhân vật, còn phần đế là phần chìm dưới mặt nước giữ cho rối nổi bên trên và là nơi lắp máy điều khiển cho quân rối cử động. Máy điều khiển rối nước có thể được chia làm hai loại cơ bản: máy sào và máy dây đều có nhiệm vụ làm di chuyển quân rối và tạo hành động cho nhân vật. Máy điều khiển được giấu trong lòng nước, lợi dụng sức nước, tạo sự điều khiển từ xa. Buồng trò rối nước là nhà rối hay thủy đình thường được dựng lên giữa ao, hồ với kiến trúc cân đối tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam. Người nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò để điều khiển con rối. Sân khấu rối nước là khoảng trống trước mặt buồng trò. Buồng trò, sân khấu được trang trí cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã... Buổi diễn rất nhộn nhịp với lời ca, tiếng trống, mõ, tù và, chen tiếng pháp chuột, pháo thăng thiên, pháo mở cờ từ dưới nước lên, trong ánh sáng lung linh và màn khói huyền ảo. Trò rối nước là trò khéo lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt, rối nước gắn bó với âm nhạc như nghệ thuật múa. Âm nhạc điều khiển tốc độ, giữ nhịp, dẫn dắt động tác, gây không khí với tiết tấu truyền thống giữ vai trò chủ đạo của trò rối nước, nhạc rối nước thường sử dụng các làn điệu chèo hoặc dân ca đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ nhân: có 02 nhóm: - Nhóm điều khiển con rối: trên "sân khấu" này là những con rối biểu diễn nhờ sự điều khiển của những người phía sau phông thông qua hệ thống sào, dây... - Nhóm gồm các nhạc công, nghệ sỹ hát, diễn trình lời thoại ngồi phía bên cạnh buồng trò để giới thiệu, đọc lời thoại cho mỗi tiết mục biểu diễn. Công trình kiến trúc, hiện vật và không gian văn hóa liên quan đến di sản bao gồm: - Hệ thống thủy đình: Có 3 nhà thuỷ đình được xây dựng bằng gạch, bê tông cốt thép chắc chắn trên các ao làng. - Di tích đình Bồ Dương hay còn gọi là đình Đông, thuộc thôn Bồ Dương, xã Hồng Phong (Ninh Giang). Trong nội tự của di tích còn bảo lưu được nhiều mảng chạm khắc với nhiều đề tài long, ly, quy, phượng và tứ quý tùng, cúc, trúc, mai hoặc các bức côn có hình các con rối đang cưỡi rồng. Đặc biệt là có hình các chú tễu đang đấu vật. Di tích đã được Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng cấp quốc gia năm 1995. - Đình Bùi Thượng, xã Lê Lợi (Gia Lộc) là nơi thờ thành hoàng làng Bùi Thượng - người truyền nghề làm con rối nước tại Bùi Thượng cho người dân trong làng. - Đền An Liệt, xã Thanh Hải (Thanh Hà): Tương truyền ngôi đền trước kia có chạm khắc hình các chú tễu trên các bộ vì tại di tích. Đáng tiếc ngôi đình và các bức chạm đó đã bị phá, ngôi đình hiện nay không còn chạm khắc về hình rối nữa. - Chùa An Liệt: Chùa nằm cạnh đền nhìn ra ao múa rối nước. Trong lễ hội đền và các ngày lễ tại chùa thường có biểu diễn múa rối nước vào buổi tối do phường rối nước An Liệt xưa trình diễn để phục vụ người dân và du khách thập phương. - Hệ thống ao hồ tại các di tích - Vùng trồng cây gỗ sung

© 2013 Bản quyền thuộc về Cục Di sản văn hóa. ® Thiết kế bởi VNIT
Địa chỉ: 51 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
Website: http://dsvh.gov.vn * Tel: (84-4) 39447540 * Fax: (84-4) 39439929 * Email: Liên hệ